Xã hội Đế_quốc_Mông_Cổ

Pháp luật và cai quản

Bài viết này không được chú giải bất kỳ nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích cho từng nội dung cụ thể trong bài viết tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Đế quốc Mông Cổ được cai trị theo các bộ luật do Thành Cát Tư Hãn đặt ra, gọi là Yassa, nghĩa là "điều lệnh" hay "chiếu chỉ". Một tiêu chuẩn đặc thù của bộ luật này là những người có cấp bậc cũng phải chia sẻ khó khăn gian khổ như những thường dân. Nó cũng áp đặt những hình thức xử phạt khắc nghiệt, ví dụ áp dụng hình thức xử tử đối với những kỵ binh nào đang theo sau một kỵ binh khác mà không nhặt những gì mà người kỵ binh đi đằng trước đánh rơi. Hình phạt xử tử cũng áp dụng đối với việc cưỡng hiếp hay ở một mức độ nào đó là hành vi việc giết người. Nói chung, kỷ luật chặt chẽ đã tạo ra một Đế quốc Mông Cổ cực kì an toàn và hoạt động tốt; Những khách lữ hành người Âu đều ngạc nhiên vì sự tổ chức và tính kỷ luật nghiêm ngặt của những người dân trong Đế quốc Mông Cổ.

Theo luật Yassa, lãnh đạo và tướng lĩnh được lựa chọn dựa trên phẩm chất, sự khoan dung tôn giáo được đảm bảo, và việc trộm cắp hay phá hoại tài sản công dân bị nghiêm cấm hoàn toàn.

Đế quốc được cai trị bởi một hội đồng trung ương phi dân chủ theo kiểu nghị viện, gọi là Hốt lý lặc thai (Kurultai), trong đó các chỉ huy Mông Cổ diện kiến Đại hãn để bàn về những vấn đề đối nội và đối ngoại. Các đại hội Hốt lý lặc thai cũng được triệu tập để bầu Đại hãn mới.

Thành Cát Tư Hãn rất khoan dung với các tôn giáo khác, và không bao giờ xử tội một người nào vì niềm tin tôn giáo của họ. Điều này có liên hệ với văn hóa và tư tưởng tiến bộ của họ. Một số sử gia trong thế kỉ 20 nhận định rằng đó là một chiến lược quân sự đúng đắn, như khi ông đang tiến hành chiến tranh với Sultan Muhammad của Đế quốc Khwarezm, các lãnh tụ Hồi giáo khác đã không tham gia vào việc chống lại ông - họ xem đó chỉ là một phi thánh chiến giữa 2 cá nhân mà thôi.

Trên toàn đế quốc, các con đường giao thương và một hệ thống thư tín có phạm vi rộng (yam) được thiết lập. Nhiều thương nhân, người đưa thư và khách lữ hành từ Trung Hoa, Trung Đông và châu Âu đã sử dụng hệ thống này. Thành Cát Tư Hãn cũng cho tạo ra một quốc ấn, khuyến khích việc sử dụng chữ cái Mông Cổ, và miễn thuế cho các giáo viên, luật gia, và các nghệ sĩ, mặc dù tất cả các đối tượng khác của đế quốc bị đánh thuế nặng.

Đồng thời, bất cứ sự chống đối nào đối với sự cai trị của người Mông Cổ đều bị trừng trị tàn khốc. Các thành phố bị chiếm và dân chúng trong thành đều bị thảm sát nếu họ không tuân theo mệnh lệnh của người Mông Cổ.

Tôn giáo

Tranh mô tả Hợp Tán Hãn đang học kinhQuran

Người Mông Cổ đều rất hào phóng với hầu hết các tôn giáo, và điển hình là bảo trợ cho nhiều tôn giáo cùng một lúc. Dưới thời Thành Cát Tư Hãn, hầu như mọi tôn giáo đều có những người cải đạo, từ Phật giáo tới Cơ-đốc giáo, và từ Minh giáo tới Hồi giáo. Để tránh xung đột, Thành Cát Tư Hãn thành lập một thể chế để đảm bảo tự do tôn giáo hoàn toàn, mặc dù bản thân ông là người theo Shaman giáo (Vu-hích-tông giáo). Dưới sự cai trị của ông, tất cả các lãnh đạo tôn giáo đều được miễn thuế, và không phải trả các dịch vụ công cộng.[103]

Ban đầu, người Mông Cổ có rất ít địa điểm chính thức cho việc cầu nguyện và thờ phụng do lối sống của dân du mục. Tuy nhiên, dưới thời Oa Khoát Đài, nhiều dự án xây dựng được triển khai ở Cáp Lạp Hòa Lâm. Cùng với những cung điện, Oa Khoát Đài cũng xây các nhà cầu nguyện cho những tín đồ Phật giáo, Hồi giáo, Cơ-đốc giáo và Đạo giáo. Tôn giáo chiếm ưu thế vào thời điểm đó là Shaman giáo, Tengri giáo (Đằng-cách-lý giáo) và Phật giáo, mặc dù vợ Oa Khoát Đài là một người Mông Cổ theo Cảnh giáo.[104] Cuối cùng, ba trong bốn hãn quốc chính đều theo Hồi giáo.[105][106]

Nghệ thuật và văn học

Tác phẩm cổ nhất bằng tiếng Mông còn tồn tại là Mông Cổ bí sử, được viết cho hãn tộc sau khi cái chết của Thành Cát Tư Hãn vào năm 1227. Đây là tư liệu bản địa quan trọng nhất về cuộc sống và phả hệ của Thành Cát Tư Hãn, bao gồm nguồn gốc và thời thơ ấu của ông, thông qua việc thành lập Đế quốc Mông Cổ và sự trị vì của con trai ông là Oa Khoát Đài. Một tác phẩm kinh điển khác của đế quốc là Jami' al-tawarikh (Sử tập). Nó được lệnh biên soạn của A Bát Cáp Hãn, theo hình thức văn kiện lịch sử của toàn thế giới, để giúp thiết lập di sản văn hóa riêng của người Mông Cổ. Với hàng trăm các trang minh họa, nó thực sự là một trong những văn bản lịch sử thế giới đầu tiên.

Hệ thống thư tín

Bức thư do Y Nhi hãn Hoàn Giả Đô (Öljaitü) gửi cho vua Philippe IV của Pháp vào năm 1305

Đế quốc Mông Cổ có một hệ thống thư tín mưu trí và hiệu quả ở thời điểm đó, thường được các học giả gọi là Yam. Hệ thống có những đội chuyển thư tiếp sức được trang bị tốt và đầy đủ được gọi là örtöö, có mặt khắp nơi trên Đế quốc Mông Cổ. Hệ thống yam về sau được lặp lại ở Hoa Kỳ dưới hình thức Pony Express.[107] Một người đưa thư điển hình phải di chuyển 40 km giữa 2 trạm kế tiếp nhau, và người này có thể nhận được một con ngựa mới, đã được nghỉ ngơi hoặc là đưa thư đó cho người tiếp theo để đảm bảo tốc độ chuyển thư nhanh nhất có thể. Thông thường người này có thể di chuyển 200 km mỗi ngày, nhanh hơn kỷ lục nhanh nhất được ghi nhận của Pony Express vào 600 năm sau.

Thành Cát Tư Hãn và người kế vị ông là Oa Khoát Đài cũng tiến hành xây dựng các con đường, một trong số đó cắt qua dãy núi Altai. Sau khi lên ngôi Đại Hãn, ông đã tổ chức hệ thống đường sá và ra lệnh cho Sát Hợp Đài hãn quốc và Kim Trướng Hãn quốc nối với các con đường ở phần tây của Đế quốc. Để giảm sức ép cho các hộ dân, ông đã thiết lập các trạm trung chuyển kèm với các hộ dân cách nhau 40 km. Bất cứ ai có paiza (bài tử) mới được phép cấp ngựa tiếp sức và được cung cấp một khẩu phần ăn đặc biệt, nhưng những người mang các thư tín đặc biệt liên quan đến quân sự thì có thể sử dụng Yam mà không cần paiza. Tin về cái chết của Thành Cát Tư Hãn ở Cáp Lạp Hòa Lâm được chuyển tới lực lượng Mông Cổ của Bạt Đô Hãn ở Trung Âu trong vòng 4-6 tuần là nhờ có Yam.[47]

Hốt Tất Liệt Hãn, người sáng lập triều Nguyên, đã xây dựng các trạm trung chuyển đặc biệt cho các đại thần cấp cao, cũng như các trạm bình thường có lữ quán. Trong suốt thời kỳ Hốt Tất Liệt, hệ thống thông tin của triều Nguyên bao gồm khoảng 1.400 trạm trung chuyển, sử dụng 50.000 con ngựa, 8.400 , 6.700 la, 4.000 xe bò/ngựa và 6.000 thuyền. Ở Mãn Châu và nam Siberia, người Mông Cổ vẫn sử dụng các đội xe trượt tuyết do chó kéo cho hệ thống Yam. Ở Y Nhi hãn quốc, Hợp Tán đã khôi phục lại hệ thống trung chuyển đang suy tàn ở vùng Trung Đông trên một phạm vi giới hạn. Ông đã xây dựng một số lữ quán và ban lệnh rằng chỉ có những sứ thần đế quốc mới được nhận lương để trang trải chi phí. Dòng Truật Xích ở Kim Trướng hãn quốc đã cấp tiền cho hệ thống yam nhờ vào một loại thuế đặc biệt.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đế_quốc_Mông_Cổ http://sd71.bc.ca/sd71/school/courtmid/Library/sub... http://www.ucalgary.ca/applied_history/tutor/islam... http://www.allempires.com/article/index.php?q=The_... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/102315/h... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/389325 http://www.fsmitha.com/h3/h11mon.htm http://books.google.com/?id=4jHEwSc2gEMC&pg=PA109&... http://www.leader-values.com/Content/detail.asp?Co... http://www.paradoxplace.com/Insights/Civilizations... http://steppes.proboards23.com/index.cgi?board=boa...